Bài nhạc được sử dụng trong phim Tam quốc diễn nghĩa sản xuất 1994, ở cảnh quay kết nghĩa vườn đào của 3 anh hùng hảo hán trong tập 1 và cuối tập 19. Đại anh hùng và nghiệp giang sơn. Trong Tam quốc diễn nghĩa, có nhân vật được coi là đại anh hùng đó là Tào Tháo và
Phim Tân Tam Quốc HTV2 (95/95 Tập Cuối) trọn bộ lồng giờ mình cũng giống như bao fan khác say đắm xem phim tam quốc diễn nghĩa từ thời gian còn bé dại nay tam quốc diễn nghĩa ra phiên bạn dạng mới Tân Tam Quốc là bộ phim truyền hình kinh điểm độc nhất của china đã phát hành trên kênh htv2, văn bản phim Tân Tam Quốc
Phim Rồi 30 năm sau tập 28 preview sẽ phát sóng trên kênh THVL1. Video: THVL Phim. Lịch chiếu phim Rồi 30 năm sau tập 28. Phim Rồi 30 năm sau tập 28 sẽ được phát sóng trực tiếp trên kênh THVL1 (Đài truyền hình Vĩnh Long) vào lúc 20h00 hôm nay 20/10/2022. Link xem trực tiếp Rồi 30 năm sau
Hy vọng với bài viết tóm tắt sơ lược về Tam Quốc Diễn Nghĩa đã giúp bạn có những thông tin thiết yếu về tác phẩm này. Cũng như top 5 bài học kinh nghiệm giá trị và thiết thực dựa trên tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa sẽ hữu dụng cho bạn trong đời sống .
Lời người viết: Ðây không chỉ là một bài khảo cứu về thơ Ấn Ðộ đương đại. Tôi thực hiện tiểu luận này từ vị trí của một nhà văn Việt Nam quan sát văn học Ðông Tây để tìm kiếm những bài học bổ ích cho hành trình đổi mới của văn học Việt Nam.
. 1. “Người sống ở đời, chuyện không như ý thường chiếm đến tám, chín phần” – Dương Hỗ2. “Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi” – Gia Cát Lượng3. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” – Gia Cát Lượng4. “Thị phi thành bại hóa thành không” Các dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu của người Á Đông, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Việt Nam, Trung Hoa… gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay. Trong tác phẩm bất hủ “Tam Quốc diễn nghĩa”, La Quán Trung đã khắc hoạ rất nhiều nhân vật lịch sử bằng văn phong vô cùng phong phú, từ miêu tả tướng mạo đến lời nói, cử chỉ. Có rất nhiều câu nói thương tâm mà cho đến nay vẫn khiến người đời thổn thức mãi không thôi. 1. “Người sống ở đời, chuyện không như ý thường chiếm đến tám, chín phần” – Dương Hỗ Trong số đông đảo anh hùng trong “Tam quốc diễn nghĩa”, Dương Hỗ 221-278 vốn không phải là người đáng thất vọng nhất trên chốn quan trường. Ông phục vụ cho 2 triều Tào Nguỵ và Tấn. Vua Tấn phong cho ông đến chức quận công, thực ấp hộ. Thế nhưng Dương Hỗ lại là một trong những người nói ra câu nói chán nản không như ý nhất. “Nhân sinh thất ý vô nam bắc” nam bắc nào ai được thỏa lòng – Với câu nói này, Dương Hỗ bỗng chốc trở thành người bạn tri âm của những người chán nản, không được như ý muốn. Những người bi quan thường hay nói “càng đánh càng thua”, trong khi người lạc quan sẽ nói “càng thua thì càng phải đánh”, cùng một hoàn cảnh giống nhau, nhưng sĩ khí lại hoàn toàn khác nhau. 2. “Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi” – Gia Cát Lượng Câu nói này thể hiện tấm lòng trung nghĩa, sẵn sàng xả thân vì nước của Gia Cát Võ Hầu. Tuy nhiên, cũng không ít người cho rằng đây là một câu nói rất thương tâm. Khi Khổng Minh nói “Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”, là khi “phạt Ngụy” vốn đã trở thành điều không tưởng, rồi sau đó ông chết ở gò Ngũ Trượng. Trong “Thần điêu hiệp lữ”, khi Quách Tĩnh nói ra câu “Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”, có người liền thở dài một tiếng Quách đại hiệp sắp phải hy sinh rồi, thành Tương Dương không giữ được nữa rồi, Đại Tống sắp diệt vong rồi! Quả đúng là “Ra trận chưa thắng người đã mất, trường sử anh hùng lệ đầy khăn!”. 3. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” – Gia Cát Lượng Khổng Minh dốc hết sức lực phò tá cha con Lưu Bị. Ông đã sáu lần ra Kỳ Sơn, nhưng vẫn phạt Ngụy không thành. Khổng Minh đành phải thở dài rằng “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, không thể cưỡng cầu”. Câu nói này khiến người ta không thể không cảm thấy thương cảm. Thế sự dồn dập không kết thúc, mệnh trời đã định trốn làm sao? Dường như Lưu Bị xưng đế, Tôn Quyền chiếm lĩnh một phương, Tào Tháo thao túng thiên tử hiệu lệnh chư hầu, Quan Vũ bại trận đến Mạch Thành… hết thảy đều là ý Trời. Dù có tài “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý” ra sức xoay chuyển tình thế, thì cũng địch không lại ý Trời. Hạng Vũ năm xưa ở Cai Hạ mà nói “Trời muốn ta chết, không phải ở lỗi dùng binh”, quả thật có ý Trời trong đó vậy! 4. “Thị phi thành bại hóa thành không” Thời Tam Quốc, anh hùng hào kiệt nối nhau xuất hiện, trăm trận chiến oai hùng, ngàn chiến công oanh liệt. Thế mà thời gian ạt ào như nước chảy, những Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân… nay còn đâu? Tô Đông Pha khi còn trẻ chí khí cao vời vợi. Ông từng tự phụ “được như Nghiêu Thuấn, chuyện này khó gì”. Nhưng sau khi thập tử nhất sinh trên chốn quan trường, thì tâm ý cũng nguội lạnh mà than rằng “Tào Tháo một đời anh hùng, mà nay ở đâu đây?”. Nhân vật lịch sử trong “Tam quốc diễn nghĩa” nhiều vô kể. Văn phong cực kỳ phong phú. Bởi vậy, để lấy ra 4 câu nói thương tâm nhất thật không hề dễ dàng. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng dù có trải qua bao lớp sóng dập vùi của lịch sử, những câu nói gắn liền với điển tích ấy vẫn như văng vẳng bên tai, khiến hậu thế xót xa thổn thức. Vậy nên có bài thơ làm chứng rằng “Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng Thị phi thành bại theo dòng nước Sừng sững cơ đồ bỗng tay không Non xanh nguyên vẻ cũ Bao độ ánh chiều hồng. Bạn ngư tiều dãi dầu trên bãi Vốn đã quen gió mát trăng trong Một vò rượu nếp vui bạn cũ Chuyện đời tan trong chén rượu nồng”. Lâm giang tiên – Dương Thận Video Vì sao người Việt Nam ai cũng yêu thích “Tam Quốc diễn nghĩa”? Chung quy chỉ ở 1 chữ mà thôi!
Tam quốc diễn nghĩa giản thể 三国演义; phồn thể 三國演義, Pinyin sān guó yǎn yì, nguyên tên là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về Lịch sử Trung Quốc được nhà văn La Quán Trung viết vào thế kỷ 14. Tiểu thuyết có nội dung kể về một thời kỳ hỗn loạn trong lịch sử Trung Hoa là thời Tam Quốc 190–280 với 120 chương hồi, theo phương pháp bảy phần thực, ba phần hư bảy phần thực tế, ba phần hư cấu. Tiểu thuyết này được xem là một tác phẩm văn học kinh điển, và là một trong Tứ đại danh tác của văn học Trung Quốc. Kể từ lần dịch đầu tiên đến nay là một thế kỷ, Tam quốc diễn nghĩa đã được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam cũng rất đa dạng, nhiều người dịch, in theo nhiều khổ, một tập có, nhiều tập có, in truyện tranh có, hiệu đính kỹ lưỡng có và cũng có những bản dịch bình dân, có cả những câu văn vần kể lại sơ lược truyện Tam quốc như Truyện Tam quốc trực trần thiệt sự Coi với trong chánh chính sử không sai Đã lắm trang quỷ quyệt trí tài Lại nhiều kế tâm hoài nghĩa khí Ai nhơn nhân từ bằng ông Lưu Bị Ai gian hùng như Ngụy Tào Mang Man Quang Quancông Hầu một tấm trung can Lòa ngọn đuốc rỡ ràng gương nhựt nhật nguyệt Trương dực đức hoanh hoanh liệc liệc oanh oanh liệt liệt Tính bình sanh chơn thiệt chân thật trực tình ……. Như vậy cho chúng ta thấy, hiếm có một tác phẩm văn học nào lại được đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam yêu thích như Tam quốc diễn nghĩa. 1 Bài thơ đầu phim Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông? Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng, Thị phi thành bại theo dòng nước, Sừng sững cơ đồ bỗng tay không. Núi xanh nguyên vẹn cũ Bao độ ánh triều hồng, Bạn ngư tiều dãi dầu trên bãi, Vốn đã quen gió mát trăng trong, Một vò rượu nếp vui gặp gỡ, Chuyện đời tan trong chén rượu nồng. 2 Bài thơ khi Lưu Bị cưới Tôn phu nhân Rừng xuân hoa rực rỡ Chim xuân giọng thiết tha Gió xuân đa tình quá Khẽ rung tà áo ta. Sớm trên đồi hóng mát Chiều xuống đầm hái sen Dưới trăng thuyền nhẹ lướt Rung rinh cánh sen êm Ngẩng đầu ngắm ngô đồng Hoa cỏ yêu yêu lắm Nguyện trời không tuyết sương Cho hoa ngàn năm thắm Vực sâu băng đóng dầy Đồng xa tuyết bay trắng Lòng thiếp như bách tùng Tình chàng trăm năm vững 3 Bài cuối phim Đã mờ rồi ánh kiếm ánh đao Lùi xa rồi tiếng loa tiếng trống Vẫn rõ ràng sống động bao gương mặt anh hùng Con đường xưa ngập trong cát bụi Thành quách xưa hóa cảnh hoang tàn Năm tháng oai hùng thành lịch sử Bao chiến công tên tuổi còn vang Mộng bá vương ai người quyết định Lẽ thịnh suy há chẳng có nguyên nhân Sự đời vần vũ như mây gió Đổi thời gian, đổi cả không gian Tụ tán nhờ có duyên, ly hợp vốn do tình Trả món nợ non sông trước mắt Mặc đời sau thiên hạ luân bình Nước Trường Giang hóa thành sông lệ Gió Trường Giang vang mãi bài ca Giữa bầu trời lịch sử muôn triệu ánh sao xa Trong dân gian vạn thuở, ấy muôn triệu đóa hoa! 4 Tuyệt tác 7 bước thành thơ của Tào Thực Đề bài của Tào Phi Làm bài thơ nói về tình anh em mà không được dùng chữ “huynh, đệ” Nấu đậu đốt cành đậu, Đậu ở trong nồi khóc. Vốn sinh cùng một gốc, Sao nỡ đốt thiêu nhau? 5 Thơ của Tào Mao Thương thay rồng chịu khốn Không vượt khỏi vực sâu Trên trời đã không ở, Giữa ruộng nào thấy đâu Cuốn khúc nằm đáy giếng Lươn chạch lượn trước sau Vây cách xếp một xó Thân ta cũng một màu Bên cạnh các câu thề nổi tiếng trong truyện, nhiều thành ngữ Trung Quốc đang dùng ngày nay đều xuất phát từ tiểu thuyết này “Vợ con như quần áo, anh em như tay chân” thê tử như y phục, huynh đệ như thủ túc 妻子如衣服, 兄弟如手足 “Vừa nói đến Tào Tháo, Tào Tháo đã hiện ra.”; “Nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đến” thuyết Tào Tháo, Tào Tháo đáo 說曹操, 曹操到 – để nói khi một người được nhắc đến đột nhiên xuất hiện “Ba ông thợ may bằng một Gia Cát Lượng tam cá xú bì tượng, thắng quá nhất cá Gia Cát Lượng 三個臭皮匠, 勝過一個諸葛亮 – ba người kém cỏi biết làm việc tập thể còn hơn một người giỏi giang Ngoài ra cũng có một số thành ngữ tiếng Việt như “Nóng nảy như Trương Phi, đa nghi như Tào Tháo, nhu nhược như Lưu Bị” “Tào Tháo đuổi”, “Tào Tháo rượt”… cần vào nhà vệ sinh gấp “Vòng vo Tam quốc” nói loanh quanh mãi mà không chịu đi vào vấn đề chính Tổng hợp
Lịch sử Trung Quốc đã từng xuất hiện rất nhiều thời loạn thế, chẳng hạn như Xuân Thu Chiến Quốc, Hán Sở tranh hùng, Tam Quốc, Nam Bắc triều, Ngũ Đại thập Quốc… nhưng nếu nói về độ nổi tiếng và phổ biến nhất, các nhân vật được biết tới nhiều nhất thì không có thời đại nào có thể vượt qua Tam Quốc. Sở dĩ có điều đó là do thành công và ấn tượng mà cuốn tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa" đem lại cho hậu thế. Tiểu thuyết này là ví dụ tuyệt vời cho mối tương tác hết sức phức tạp giữa chính sử, dã sử, văn học viết hư cấu, văn chương dân gian và sinh hoạt văn hoá bình dân diễn ra trong một truyền thống văn hoá lớn - truyền thống Trung Hoa kéo dài qua bao thời đại. Người Trung Hoa ví các tác phẩm văn chương bất hủ như "mặt trăng mặt trời trường tồn cùng sông núi", Tam Quốc Diễn Nghĩa có thể nói chính là "Nhật nguyệt treo cao" trong kho tàng văn học Trung tưởng ủng Lưu phản TàoBa anh em nhà Lưu Bị, tranh lụa của Sekkan Sakurai 1715-1790, The Field MuseumTam quốc diễn nghĩa được xếp là 1 trong "Tứ đại danh tác" của Trung Hoa. Tác giả La Quán Trung đã nói rõ chủ đề ngay từ tên tác phẩm ông dùng lịch sử của ba quốc gia thời Tam quốc để diễn giải về “nghĩa” tư tưởng chính nghĩa của con người, lấy đó làm chủ đề chính. Tam quốc diễn nghĩa bao hàm ý nghĩa cao siêu của tiêu chuẩn đạo đức, luân lý truyền thống Trung Hoa, ngoài ra còn có đạo lý “Nhân quả báo ứng”, “Thuận theo tự nhiên”, “Người tính không bằng trời tính”. Tác phẩm không chỉ là tiểu thuyết đơn thuần, mà còn ẩn chứa những bài học răn dạy về đạo đức, những tấm gương được mọi người tôn kính thông qua những câu chuyện lịch sử. Bởi vì nắm chắc được điểm này cho nên Tam quốc diễn nghĩa mới có thể “trường thịnh không suy”, đi sâu vào lòng người đọc suốt nhiều thời đại như vậy, không chỉ ở Trung Quốc và cả ở Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Tam quốc diễn nghĩa là câu chuyện gần một trăm năm, sự việc nhiều nhưng không rối, đó là do ngòi bút có khuynh hướng rõ ràng của La Quán Trung. Tác giả đứng về phía Thục Hán, lên án Tào Ngụy, còn Tôn Ngô chỉ là lực lượng trung gian. Những nhân vật của Thục Hán như hoàng đế Lưu Bị với tư tưởng "trọng Nhân hòa, lấy dân làm gốc", gia đình thừa tướng Gia Cát Lượng suốt 3 đời phò tá triều đình với tấm lòng "cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi", các đại tướng Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Khương Duy võ nghệ xuất chúng lại tận trung vì nước, bao phen xả thân để bảo vệ cơ nghiệp nhà Hán; Cam phu nhân chỉ là nữ nhi mà thấu hiểu đạo nghĩa, My phu nhân sẵn lòng hy sinh tính mạng để cứu dòng dõi Lưu Bị... Mỗi nhân vật chính của nhà Thục Hán đều được khắc họa với chính khí lẫm liệt, là những tấm gương về trung thần nghĩa sĩ, con hiếu thảo, vợ tiết trinh. Nhà Thục Hán là sự kết tinh nguyện vọng của quần chúng nhân dân về một vị vua xuất thân hàn vi, biết thấu hiểu nỗi khổ và yêu thương quý trọng nhân dân, một triều đình thực hiện "nhân chính", một xã hội giàu đạo đức với những tấm gương tôi trung vợ tiết, một đất nước thống nhất và hoà bình. Đặc biệt trong bối cảnh tác phẩm ra đời, khi nhà Nguyên của ngoại tộc Mông Cổ đang thống trị Trung Hoa, tư tưởng "ủng Lưu phản Tào" còn thể hiện khát vọng của nhân dân có một vị vua kế thừa dòng máu người Hán Lưu Bị là dòng dõi hoàng thất nhà Hán, đánh đuổi triều đình ngoại tộc để giành lại giang sơn cho dân tộc Hán một kiệt tác sân khấu ra đời trong cùng thời kỳ cũng mang tư tưởng này, đó là Con côi nhà họ Triệu.Tuy Tam quốc diễn nghĩa có một số tình tiết hư cấu về lịch sử, nhưng về nét chính, các bộ chính sử Trung Quốc cũng công nhận triều đình Thục Hán có rất nhiều nhân vật đáng khen ngợi vua nhà Thục Hán là Lưu Bị vốn có xuất thân hàn vi, thuở nhỏ phải đan dép cỏ kiếm sống nên rất thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân, ông từ hai tay trắng gây dựng cơ đồ nhờ sự trợ giúp trung thành của các tướng sĩ, khi lên ngôi lại thi hành chính sách khoan hòa với nhân dân. Gia đình Thừa tướng Thục Hán là Gia Cát Lượng thì suốt 3 đời đều hết lòng tận tụy vì nước và rất liêm khiết, "trong nhà chẳng để thừa gấm vóc, bên ngoài không có điền sản dư dôi". Đại tướng Khương Duy là tổng chỉ huy quân đội cũng sống rất giản dị, "ăn uống rất mực tiết kiệm, trong nhà không có thiếp hầu, sau sân chẳng nghe thấy tiếng đàn hát". Danh tướng Triệu Vân không quản hiểm nguy một mình cứu ấu chúa trong trận Đương Dương - Trường Bản. Các cặp cha con Triệu Vân - Triệu Quảng, Gia Cát Chiêm - Gia Cát Thượng, Phó Đồng - Phó Thiêm thì "thụ mệnh lúc lâm nguy, cha con nối đời trung nghĩa" mà tráng liệt hy sinh. Những yếu tố đó rất gần gũi với hình mẫu một vị vua lý tưởng, một triều đình chân chính đối với nhân dân Trung Quốc thời phong kiến, nước Thục Hán mất rồi mà người dân địa phương đến cả nghìn năm sau vẫn còn hoài niệm và lập đền thờ. Do vậy, các câu chuyện dân gian về thời Tam Quốc có xu hướng ca ngợi Lưu Bị và nhà Thục Hán, căm ghét kẻ thù của ông là điều tất yếu, và xu hướng "ủng Lưu phản Tào" đã là tư tưởng chung của đại đa số nhân dân Trung Quốc từ trước cả khi tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa ra đời. Trong sách sử đời Bắc Tống đã có ghi lại một đoạn bút ký nói rằng “Những trẻ em trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc, thấy nói đến Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể Tào Tháo bại trận thì khoái chí reo mừng". Bút ký ấy cho thấy ngay cả trước khi Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung ra đời, nhân dân Trung Quốc đã có xu hướng "ủng Lưu phản Tào", họ yêu mến Lưu Bị và căm ghét Tào Tháo. Chính sự kế thừa nguyên vẹn tư tưởng đó đã giúp tác phẩm được đông đảo nhân dân Trung Hoa đón nhận, họ như thấy được thái độ yêu - ghét của chính bản thân ở ngay trong tác phẩm là sự kết hợp giữa sáng tác tập thể của các nghệ sỹ dân gian với sáng tác riêng của nhà văn, mà phần cốt lõi là sáng tác truyền miệng được tích lũy qua nhiều thế hệ. Những tác phẩm truyền miệng là kết tinh của trí tuệ tập thể, thể hiện một cách rõ nét ý thức chính trị xã hội, ý thức đạo đức luân lý và ý thức thẩm mỹ của đa số quần chúng nhân dân, trải qua nhiều năm được La Quán Trung gọt giũa, đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật cũng như triết lý nhân sinh. Những phẩm chất tốt đẹp mà nhân dân ca ngợi như Trung hậu nhân từ; Hào phóng chính trực; Anh dũng ngoan cường; Đoàn kết tương trợ; Thông minh mưu trí; Quên mình vì nghĩa... được các nghệ sỹ dân gian tập trung vào nhân vật Lưu Bị và nhà Thục Hán. Mặt khác, các nghệ sỹ dân gian cũng đem những thói hư tật xấu mà nhân dân căm ghét như Hung ác tàn bạo; Nham hiểm gian trá; Tự tư giả đối, Hống hách ngang ngược; Hoang dâm vô độ... gán cho các nhân vật Tào Tháo, Đổng Trác, Viên Thiệu... Có thể nói một cách không khoa trương rằng "Tam quốc diễn nghĩa" là một kho báu về thế giới quan, nhân sinh quan, quan niệm giá trị và quan niệm thẩm mỹ của quần chúng nhân dân thời cổ Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân cơ bản, khiến "Tam quốc diễn nghĩa" được đông đảo quần chúng nhân dân ưa thích qua nhiều thế ngữ văn họcTam quốc diễn nghĩa là tiểu thuyết sử thi nên giọng điệu chủ yếu là ca ngợi hay châm biếm hài hước để phê phán. Tác phẩm khoa trương những chiến tích để ca ngợi các anh hùng hảo hán, cường điệu những khó khăn hiểm trở để thử thách tài năng võ nghệ của các anh hùng. Các nhân vật luôn có vóc dáng khác người, những hành động phi thường và tâm hồn họ cũng cao thượng hơn hẳn so với người thường. Có lẽ vì thế, có nhiều trận đánh ác liệt tử vong rất nhiều nhưng tác phẩm vẫn không gây không khí bi thảm. Truyện giống như một bản anh hùng ca về sự dũng cảm, mưu lược, tấm lòng nhân ái trung nghĩa của các vị anh hùng nhà Thục Hán, mà hậu thế khi đọc vẫn phải thấy cảm kích và thu nhận những bài học quý giá cho chính ngữ của Tam quốc diễn nghĩa là sự kết hợp giữa văn ngôn và bạch thoại, sử dụng được ngôn từ thông dụng trong nhân dân. Ngôn ngữ kể chuyện lấn át ngôn ngữ miêu tả, và trong ngôn ngữ miêu tả rất ít sử dụng định ngữ và tính từ. Người Trung Quốc gọi loại miêu tả ngắn gọn như vậy là lối bạch miêu, nhưng nhờ lối kể chuyện khéo léo, đối thoại sinh động và sử dụng rộng rãi khẩu ngữ, các truyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại, chuyện lịch sử,... nên đã tạo cho tác phẩm một vẻ đẹp hấp dẫn vừa bác học và dân ca ngợi trong dân gian3 anh em Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi làm lễ kết nghĩa, một điển tích nổi tiếng trong Tam quốc diễn dân gian có rất nhiều tác phẩm thơ văn bắt nguồn từ những tích truyện nổi tiếng trong Tam Quốc Diễn tướng Thục Hán là Gia Cát Lượng được người dân Trung Quốc ca ngợi là "vạn đại quân sư" vì tài năng và lòng trung thành tuyệt vời, đền thờ ông tại thành Bạch Đế nổi tiếng nhất vẫn là tác phẩm của Đỗ Phủ đề tặngGia Cát danh thơm khắp hải hà,Tôn thần tượng ấy đủ cao chân đại đỉnh phân ranh giới,Một quạt kê mao đuổi giặc dựng bá vương tài Lã Vọng,Mở mang cơ nghiệp chí Tiêu HàNhững mong gánh vác phò vua Hán,Ngũ Trượng chưa yên mộng hải những thờ Quan Vũ tướng nhà Thục Hán có rất nhiều câu đối ca ngợi sự nghiệp và đức độ của ông. Những câu đối nổi tiếng nhất về Quan Vũ được ghi nhận là[17]Mặt đỏ lòng son, cưỡi Xích thố như gió, khi rong ruổi không quên vua Đỏ.[18]Đèn xanh xem sử xanh, nương thanh long yển nguyệt, chốn ẩn vi chẳng thẹn với trời xanhSinh ở Bồ châu, làm việc tại Dự châu cùng Lưu Bị, chiến Kinh châu, thủ Từ châu, trước giờ chỉ có duy nhất ở Thần châu[19]Anh là Huyền Đức, em là Dực Đức, bắt giữ Bàng Đức, tha Mạnh Đức[20], ngàn thu đức lớn không ai sánh bằngTướng Thục Hán là Triệu Vân với chiến tích một mình cứu chúa trong trận Đương Dương - Trường Bản thì được dân gian ca ngợi bằng bài thơMáu đỏ chan hòa áo giáp hồngĐương Dương ai kẻ dám tranh hùngXưa nay cứu chúa xông trăm trậnChỉ có Thường Sơn Triệu Tử LongNgay cả ở Việt Nam, dân gian đã có những câu thơ thể hiện tinh thần ca ngợi nhà Thục Hán trong truyện Tam quốc như sau[21]Truyện Tam quốc trực trần thật sựCoi với trong chánh chính sử không saiĐã lắm trang quỷ quyệt trí tàiLại nhiều kế tâm hoài nghĩa khíAi nhân từ bằng ông Lưu BịAi gian hùng như Ngụy Tào ManQuan công Hầu một tấm trung canLòa ngọn đuốc rỡ ràng gương nhật nguyệtTrương Dực Đức oanh oanh liệt liệtTính bình sanh chân thật trực tìnhNhà thơ Tản Đà của Việt Nam có bài thơ ca ngợi lòng tận trung báo quốc của Thừa tướng Gia Cát Lượng của nhà Thục HánLục xuất Kỳ Sơn Gia Cát LượngLòng trung chói sáng cõi nhân hoànBiểu xuất sư hoà lệ chứa chanXiết nghĩ giang sơn cùng ấu chúaThành bại, hưng vong, trời đã địnhTranh hùng cát cứ khả do nhân
臨江仙Lâm giang tiênDịch nghĩaBản dịch của Điệp luyến hoaBản dịch của Điệp luyến hoaBản dịch của Hoàng TâmBản dịch của Từ NguyễnBản dịch của KaioBản dịch của Tử Vi Lang Mặc HươngBản dịch của Nam LongBản dịch của Phan Kế BínhBản dịch của Không rõBản dịch của Tiêu PhongBản dịch của Thái ÂmBản dịch của Trung DungBản dịch của Quang ViệtBản dịch của Vũ KhánhBản dịch của SGLTBản dịch của dịch của Cao Tự ThanhBản dịch của Huyền LâmBản dịch của Bùi KỷBản dịch của Trần Đông PhongBản dịch của Tri kỉ mộng khó tìmBản dịch của Ngô Trần Trung NghĩaBản dịch của Lâm giang tiênBản dịch của Lưu Mạnh Đức 臨江仙 滾滾長江東逝水, 浪花淘盡英雄。 是非成敗轉頭空。 青山依舊在, 幾度夕陽紅。 白髮漁樵江渚上, 慣看秋月春風。 一壺濁酒喜相逢。 古今多少事, 都付笑談中。 Cổn cổn Trường Giang đông thệ thuỷ, Lãng hoa đào tận anh hùng. Thị phi thành bại chuyển đầu không. Thanh sơn y cựu tại, Kỷ độ tịch dương hồng. Bạch phát ngư tiều giang chử thượng, Quán khan thu nguyệt xuân phong. Nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng. Cổ kim đa thiểu sự, Đô phó tiếu đàm trung. Dịch nghĩa Nước sông Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông, Bọt sóng tung lấp vùi hết anh hùng. Đúng sai, thành bại cũng đều biến thành không. Chỉ có núi xanh vẫn mãi như xưa, Dù trải bao lần ráng chiều soi đỏ. Những người chài cá và tiều phu đầu bạc trên bến sông, Đã quen nhìn trăng thu, gió xuân ý nói từng trải. Một vò rượu đục, vui mừng gặp nhau. Xưa nay bao nhiêu chuyện đã qua, Đều mang vào trong những cuộc chuyện, tiếng cười. Bản dịch của Điệp luyến hoa Cuồn cuộn về đông sông mãi chảy, Cuốn trôi hết thảy anh hùng. Đúng sai thành bại phút thành không. Non xanh còn đứng đó, Mấy độ bóng dương hồng. Tóc bạc ngư tiều trên bến nước, Quen nhìn gió mát trăng trong. Một bầu rượu đục lúc tương phùng. Cổ kim vô số chuyện, Cười nói luận đàm ngông. Bản dịch của Điệp luyến hoa Trường Giang cuồn cuộn về đông, Bao nhiêu thế hệ anh hùng cuốn trôi. Đúng sai phải trái cũng rồi, Non xanh còn đó, mấy hồi tà dương. Ngư tiều tóc bạc trên sông, Quen nhìn thu nguyệt xuân phong xoay vòng. Gặp nhau rượu đục vui cùng, Xưa nay bao chuyện, ung dung luận đàm. Bản dịch của Hoàng Tâm Trường giang cuồn cuộn chảy về đông Sóng trắng cuốn phăng mọi anh hùng Đúng sai, thành bại, đều mây khói Núi xanh lặng đón bóng dương hồng Ngư tiều tóc bạc trên bến sông Quen với trăng thu gió xuân nồng Rượu đục tương phùng vui say bước Cổ kim bao chuyện, tiếng cười trong Bản dịch của Từ Nguyễn Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông Sóng bạc cuốn phăng hết anh hùng! Đúng – sai, thành – bại tan đâu cả Trơ lại núi xanh với áng hồng… Trên bến đôi ngư tiều bạc tóc Quen ngắm trăng thu, đón gió xuân Nhẩn nha kim, cổ cười thành tiếng Vui bầu rượu đục nghĩa tương phùng. Bản dịch của Kaio Sông dài cuồn cuộc ra khơi, Anh hùng sóng dập, cát vùi thiên thu. Dở hay, thành bại nào đâu? Bể dâu chớp mắt, ngoảnh đầu thành mơ! Non xanh còn đó trơ trơ, Tà dương lần lửa sưởi hơ ánh hồng. Lão tiều gặp lại ngư ông, Bên sông gió mát, trăng trong, kho trời. Rượu vò lại rót khuyên mời, Cùng nhau lại kể chuyện thời xa xưa. Kể ra biết mấy cho vừa? Nói cười hỉ hả, say sưa quên đời. Bản dịch của Tử Vi Lang Mặc Hương Cuồn cuộn sông dài tuôn biển đông, Sóng xô cát dập anh hùng, Tàn mơ thành bại cũng là không, Non xanh trơ vẫn đó, Lần lữa bóng chiều hồng. Đôi bạn ngư tiều phơ tóc bạc, Gặp nhau gió núi trăng sông, Mở vò rượu đục chuyện thêm nồng, Ngàn xưa nay kể lại, Vang mấy tiếng cười ngông… Bản dịch của Nam Long Cuồn cuộn trường giang nước chảy đông, Sóng xô cuốn hết anh hùng. Thị phi, thành bại thoắt thành không, Non xanh nguyên vẻ cũ, Mấy độ bóng chiều hồng. Bạc tóc ngư tiều trên bến nước, Quen cùng gió mát trăng trong. Rượu quê một nậm lúc tương phùng, Cổ kim bao những chuyện, Mặc cười nói cho xong. Bản dịch của Phan Kế Bính Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông Sóng vùi dập hết anh hùng Được, thua, thành, bại, thoắt thành không Non xanh nguyên vẻ cũ Mấy độ bóng tà hồng. Bạn đầu bạc ngư tiều trên bãi Đã quen nhìn thu nguyệt xuân phong Một bầu rượu vui vẻ tương phùng Xưa nay bao nhiêu việc Phó mặc nói cười suông. Bản dịch của Không rõ Trường Giang cuồn cuộn chảy về Đông Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng Thịnh suy, thành bại theo dòng nước Sừng sững cơ đồ bỗng tay không Núi xanh nguyên vẹn cũ Bao độ ánh chiều tà Bạn ngư tiều dãi dầu trên bãi Vốn đã quen gió mát trăng trong Một vò rượu nếp vui bạn cũ Chuyện đời tan trong chén rượu nồng Bản dịch của Tiêu Phong Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông, Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng. Thị phi thành bại theo dòng nước, Tịch dương còn đó với non sông. Ngư tiều tóc bạc trên bến bãi, Đã quen gió mát bóng trăng lồng. Tương phùng nâng chén lai rai luận, Xưa nay bao chuyện, nói cười ngông. Bản dịch của Thái Âm Trường Giang cuồn cuộn về đông, Bạc đầu ngọn sóng anh hùng cuốn trôi. Thị phi thành bài đã rồi, Non xanh còn đó mấy hồi tang thương. Trời tây ngả bóng tà dương, Ngư tiều tóc bạc vấn vương chẳng đành. Đã quen gió mát trăng thanh, Một bầu rượu đục cũng thành niềm vui. Xưa nay bao chuyện trên đời, Tương phùng tri kỷ nói cười say sưa… Bản dịch của Trung Dung Trường Giang cuồn cuộn đổ về đông, Bao lớp sóng xô, bấy lớp anh hùng, Ngoảnh đầu lại nhân tình thế thái, Được-mất bại-thành bỗng chốc hóa hư không. Biết mấy tịch dương đượm hồng sóng nước, Bao kiếp ngư tiều bươn chải theo dòng, Đắm mình với gió sông, Chung chén rượu nồng thêm thỏa chí. Dưới ánh trăng thu càng thắm thiết cuộc trùng phùng, Chuyện xưa chuyện nay, bại-thành được-mất, Trút hết nỗi niềm thư thái ung dung. Bản dịch của Quang Việt Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng Được, thua, thành, bại theo con nước Cơ đồ thoắt cái cũng thành không Non xanh nguyên vẻ cũ Mấy độ bóng tà hồng! Bạn đầu bạc ngư tiều trên bãi Đã quen rồi gió mát, trăng trong Một bầu rượu nếp vui gặp gỡ Mặc thị phi tan trong chén rượu nồng. Bản dịch của Vũ Khánh Trường Giang cuồn cuộn về đông, Sóng vùi nước cuốn anh hùng còn đâu. Được thua, phải trái cơ cầu, Tà dương mấy độ vẫn màu non xưa. Bạc đầu dăm bác tiều ngư, Khi noi thu nguyệt, khi đùa xuân phong. Một bầu vui vẻ tương phùng, Xưa nay bao việc phó cùng chén suông. Bản dịch của SGLT Trường Giang cuồn cuộn đổ về Đông Vùi dập anh hùng, bọt sóng tung Non xanh nguyên vẻ cũ Bao độ ánh chiều hồng Đúng sai thành bại hóa hư không. Ngư tiều đầu bạc, trên bến sông Thấy quen rồi thu nguyệt xuân phong Xưa nay bao nhiêu việc Cứ nói cười phó mặc Một bầu rượu vui thú tương phùng. Bản dịch của Trường Giang cuồn cuộn sóng trôi đông Trập trùng tung bọt cuốn anh hùng Thị phi thành bại mờ hư ảnh Non xanh nguyên vẻ vẫn ung dung Mấy độ bóng chiều còn vương cảnh… Tóc bạc ngư tiều nơi bến cũ, Gió xuân quen hưởng ngắm trăng thu. Một bầu rượu đục vui gặp gỡ, Chẳng thiếu chuyện đàm tiếu phong lưu. Bản dịch của Cao Tự Thanh Cuộn cuộn Trường Giang xuôi hướng biển, Sóng tuôn cuốn hết anh hùng. Thị phi thành bại thoắt thành không. Non xanh như cũ đó, Mấy độ tịch dương hồng. Tóc bạc ngư tiều trên bến nước, Quen nhìn gió mát trăng trong. Một hồ rượu đục thoả tương phùng. Nhân gian bao việc trước, Cười nói chuyện bông lông. Bản dịch của Huyền Lâm Cuồn cuộn trường giang xuôi biển đông Anh hùng sóng bạc cuốn theo dòng Đúng sai, thành bại đều mây khói Chỉ núi nghìn năm dưới nắng hồng Bến nước ngư tiều sương tóc trắng Quen cùng gió mát với trăng trong Một bầu rượu đục khi tương hội Bàn luận chuyện đời cười như không. Bản dịch của Bùi Kỷ Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông Sóng dồn đãi hết anh hùng Được thua, phải trái thoắt thành không Non xanh nguyên vẻ cũ Mấy độ bóng tà hồng Bạn bạc đầu ngư tiều trên bãi Mảng trăng thanh gió mát vui chơi Gặp nhau hồ rượu đầy vơi Xưa nay bao nhiêu việc Phó mặc cuộc nói cười Bản dịch của Trần Đông Phong Trường Giang cuộn chảy về đông Sóng hoa vùi lấp anh hùng biết bao Ngẫm suy sai đúng là đâu Thành công thất bại quay đầu thành không Núi xanh chẳng đổi đứng trông Thái dương toả bóng chiều hồng bao phen Tiều phu, ngư phủ bãi ven Bạc đầu ngắm cảnh gió quen trăng ngần Một vò rượu đục thêm phần Mừng vui gặp mặt xa gần là đây Ít nhiều việc dẫu xưa nay Nói cười đều gửi chuyện này ý trong. Bản dịch của Tri kỉ mộng khó tìm Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông Sóng tung cuốn hết bao anh hùng Đúng sai thành bại bỗng hư không Núi xanh nguyên vẹn cũ Mấy lần ánh tà hồng Bạc đầu ngư tiều trên sông bãi Đã quen trăng thu gió xuân Một bầu rượu nhạt vui gặp gỡ Xưa nay ít nhiều chuyện Bỏ mặc tất cả vui nói cười Bản dịch của Ngô Trần Trung Nghĩa Cuồn cuộn Trường Giang xuôi biển lớn Sóng xô vùi hết anh hùng Đúng sai, thành bại tựa hư không Non xanh nguyên vẹn đó Mấy độ ánh chiều hồng Bạc tóc ngư tiều trên bến nước Đã quen gió thoảng trăng lồng Một vò rượu đục khách tương phùng Bao nhiêu câu chuyện cũ Cười nói để vui chung Bản dịch của Lâm giang tiên Trường Giang cuồn cuộn đổ về Đông Bấy lớp sóng xô mấy lớp anh hùng Ngoảnh đầu nhìn lại Nhân – Tình – Thế thái Được, mất, bại, thành bỗng chốc hoá hư không. Bản dịch của Lưu Mạnh Đức Trường Giang cuồn cuộn chảy về Đông Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng Thị phi, thành bại theo dòng nước Sừng sững cơ đồ bỗng tay không Chỉ non sông kia còn vẹn cũ Dù đã trải bao ánh chiều tà cùng với thiên thu còn lưu mãi Dù bao kiếp người đã phải qua đầu bạc tiều phu cùng chài lưới Hiểu rõ trăng mây hiểu đời trần Mượn chén rượu ngon cùng đàm đạo hết thảy chuyện đời cười giòn tan. “Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng Thị phi thành bại theo dòng nước Sừng sững cơ đồ bỗng tay không Non xanh nguyên vẻ cũ Bao độ ánh chiều hồng Bạn ngư tiều dãi dầu trên bãi Vốn đã quen gió mát trăng trong Một vò rượu nếp vui bạn cũ Chuyện đời tan trong chén rượu nồng” Lâm giang tiên – Dương Thận Trường Giang cuồn cuồn chảy về đông Bọt sóng quét sạch anh hùng Đúng sai thành bại khoảnh đầu không Núi xanh nguyên vẻ cũ Bao độ ánh triều hồng Ngư tiều tóc trắng bên bến sông Đã quen nhìn gió mát trăng trong Một vò rượu đục vui gặp gỡ Xưa nay bao chuyện Đều gửi vào nói cười. CUỒN CUỘN SÔNG DÀI TUÔN BIỂN ĐÔNG SÓNG XÔ CÁT DẬP ANH HÙNG TÀN MƠ THÀNH BẠI CŨNG LÀ KHÔNG NON XANH TRƠ VẪN ĐÓ LẦN LỰA BÓNG CHIỀU HỒNG ĐÔI BẠN NGƯ TIỀU PHƠ TÓC BẠC GẶP NHAU GIÓ NÚI TRĂNG TRONG NÂNG VÒ RƯỢU ĐỤC CHUYỆN THÊM NỒNG NGÀN XƯA ĐEM KỂ LẠI VANG MẤY TIẾNG CƯỜI NGÔNG.
Giải tríNhạcLàng nhạc Thứ bảy, 31/7/2021, 1737 GMT+7 Trung QuốcVương Kiện - người viết lời cho nhiều bài hát trong "Tam Quốc diễn nghĩa" bản kinh điển 1994 - mất ở tuổi 93. Theo Beijingnews, bà mất vì bệnh tật, tuổi già. Lần cuối bà xuất hiện công khai là ở chương trình văn nghệ của đài CCTV năm 2020. Bấy giờ, ở tuổi 92, giọng bà to, rõ ràng, vẫn đọc chính xác ca từ của nhiều bài hát bà từng viết. Mao A Mẫn hát "Bầu trời lịch sử" - nhạc phim "Tam Quốc diễn nghĩa". Video Kiện sinh ở Bắc Kinh, sáng tác văn, thơ từ năm 1947. Từ năm 1954, bà làm việc ở Hiệp hội Nhạc sĩ Trung Quốc. Năm 1991, Vương Kiện gia nhập tổ Âm nhạc của đoàn phim Tam Quốc diễn nghĩa, đảm nhận viết lời. Bà viết ca từ cho chín bản nhạc, trong đó có Bầu trời lịch sử - ca khúc cuối tác phẩm hay Điêu Thuyền đã theo gió bay - bài vang lên ở một số đoạn về nhân vật Điêu Thuyền Trần Hồng đóng. Người hợp tác Vương Kiện, viết nhạc cho tác phẩm là Cốc Kiến Phân. Vương Kiện áo đen khi làm việc cùng Cốc Kiến Phân và khi ngoài 90 tuổi. Ảnh Bjnews. Vương Kiện, Cốc Kiến Phân được mệnh danh "cặp bài trùng" của làng nhạc, khi hợp tác viết lời và nhạc cho nhiều ca khúc kinh điển. Thời làm Tam Quốc diễn nghĩa, từng có người cho rằng "phụ nữ không thể viết nhạc cho phim về đàn ông". Song qua gần 30 năm, các bản nhạc trong tác phẩm truyền hình vẫn được đông đảo khán giả yêu thích. Lời bài hát được đánh giá đẹp, sâu sắc trong khi nhạc lúc hùng tráng khi da diết. Nhạc cuối phim "Tam Quốc diễn nghĩa". Video sáng tác ca từ, Vương Kiện xuất bản nhiều cuốn sách, phần lớn là tuyển tập tản văn. Năm 1994, bà ra mắt cuốn Tái dựng anh hùng, kể quá trình Tam Quốc diễn nghĩa từ nguyên tác văn học tới phim truyền hình. Bà phỏng vấn nhiều thành viên trong ê-kíp để thực hiện cuốn Anh theo Beijingnews
bài thơ trong phim tam quốc diễn nghĩa